Các nhà nghiên cứu đã để ý đến việc cho con bú hay là nuôi con bằng sữa bột ảnh hưởng đến nguy cơ bị tự kỉ chưa? Câu trả lời đến từ Alycia Halladay, Tiến sĩ, giám đốc cấp cao về khoa học môi trường và khám và điều trị bệnh nhân của tổ chức Autism Speaks.
Quyết định cho con bú hay không là một quyết định phức tạp và mang tính cá nhân. Cùng thời gian đó, chúng tôi nghe được từ rất nhiều những người mẹ lo lắng rằng quyết định của họ có thể góp phần vào hội chứng tự kỉ của con họ. Chúng tôi biết rằng sữa mẹ đem lại nhiều lợi ích cho sức khỏe của con trẻ. Học viện Mĩ về khoa nhi gần đây đã tái khẳng định sự ủng hộ của họ với việc cho con bú trong 6 tháng đầu và kết hợp với thức ăn trong suốt năm đầu tiên.
Về nguy cơ bị tự kỉ, một số những báo cáo nghiên cứu đã cân nhắc việc cho con bú với nuôi con bằng sữa bột. Không có nghiên cứu nào trực tiếp kiểm tra sữa mẹ – từ ngực hay từ chai – làm giảm hay tăng nguy cơ bị tự kỉ. Tuy nhiên, hầu hết đều cho thấy những đứa trẻ với hội chứng tự kỉ có nhiều khả năng được cho bú bằng bình từ khi sinh ra hoặc khi cai sữa hơn là những nhóm đứa trẻ được so sánh mà không bị ảnh hưởng bởi chứng tự kỉ.
Vậy tại sao chúng ta không thể nói “nuôi con bằng sữa bột gây ra chứng tự kỉ”? Có rất nhiều những biến số liên quan có thể ảnh hưởng đến nguy cơ bị tự kỉ. Những nghiên cứu vẫn chưa thể loại trừ những yếu tố này. Do đó, chúng ta chỉ có thể biết rằng nuôi con bằng sữa bột dường như có tương quan với sự tăng cao nguy cơ bị tự kỉ. Nhưng chúng ta không biết rằng nó gây ra chứng tự kỉ hoặc trực tiếp tăng nguy cơ bị tự kỉ. Ví dụ, những nghiên cứu đã kết hợp tình trạng kinh tế xã hội và trình độ học vấn của một người mẹ với khả năng mà cô ấy cho con bú. Những khác biệt này có thể ảnh hưởng đến nguy cơ mà con cô ta phát triển chứng tự kỉ.
Thêm vào đó, những nghiên cứu được chỉ đạo cho đến nay đã bao gồm những nhóm tương đối nhỏ những đứa trẻ và những gia đình trong các cộng đồng với những kiểu cho con bú và những tiêu chuẩn văn hóa riêng biệt. Ở đây lại một lần nữa có thể có những yếu tố khác chưa được nhận biết có nguy cơ. Những yếu tố này được kết hợp với những nhóm đặc biệt có xu hướng cho con bú, nhưng chúng không trực tiếp bao gồm việc cho con bú. Ví dụ, những người mẹ cho con bú có thể, như một nhóm, có xu hướng ăn khác biệt so với những người mẹ không cho con bú. Chế độ ăn của con họ cũng có thể khác biệt. Những nghiên cứu cho đến nay cũng chưa để ý đến tuổi mang thai của một đứa trẻ cho đến lúc chúng được sinh ra. Điều này cũng có thể ảnh hưởng đến khả năng xảy ra của việc cho con bú và, một cách độc lập, nguy cơ mà một đứa trẻ sẽ phát triển chứng tự kỉ.
Trong khi chúng ta không thể nói liệu rằng việc cho con bú hay nuôi con bằng sữa bột có liên quan đến nguy cơ bị tự kỉ, chúng ta biết rằng có rất nhiều lí do để khuyến khích việc cho con bú bất kì khi nào có thể. Một cách rõ ràng, yếu tố dinh dưỡng trước khi sinh và sau khi sinh là rất quan trọng cho sức khỏe và hạnh phúc của những đứa trẻ. Điều này bao gồm cả yếu tố dinh dưỡng mà một đứa trẻ nhận được qua những vitamin trước khi sinh và chế độ ăn của người mẹ trong suốt khi mang thai, thời kì sữa non, và chế độ ăn sớm (bao gồm cả những vitamin sau khi sinh nếu được khuyên bởi một bác sĩ).