Tự kỷ hiện nay là một trong những tình trạng ngày càng trở nên phổ biến, đặc biệt là ở trẻ em. Tự kỷ chính là mối lo ngại của rất nhiều người vì sự ảnh hưởng tiêu cực đến nhiều yếu tố trong cuộc sống của người mắc phải. Vậy tự kỷ chính xác là gì? Có phải bệnh lý hay không? Dấu hiệu, nguyên nhân và hướng chữa trị như thế nào? Tất cả sẽ được giải đáp trong bài viết dưới đây. Hãy cùng theo dõi để không bỏ lỡ những thông tin hữu ích nhé!
Tự kỷ là gì
Tự kỷ tiếng Anh là Autistic spectrum disorder (ASD) là một hội chứng có liên quan đến sự phát triển tự nhiên của con người. Hội chứng này lại liên quan đến khiếm khuyết tại não bộ khiến người mắc phải gặp các vấn đề về ngôn ngữ, giao tiếp, hành vi và sở thích cùng một loạt các triệu chứng, kỹ năng.
Tự kỷ có thể là một vấn đề nhỏ hoặc khuyết tật cần chăm sóc một cách đặc biệt. Thời điểm xuất hiện có thể ngay từ lúc mới sinh và cũng có thể thoái triển, bị mất dần các kỹ năng giai đoạn từ 12- 30 tháng tuổi hoặc bất kỳ giai đoạn nào khác trong cuộc đời con người do nhiều loại nguyên nhân khác nhau.
Người mắc chứng tự kỷ nhìn chung sẽ gặp rắc rối với giao tiếp, gặp khó khăn trong việc hiểu những gì người khác nghĩ và cảm nhận. Do đó, họ khó thể hiện bản thân, bằng lời nói hoặc qua cử chỉ, nét mặt và xúc giác, có thẻ có vấn đề với việc học và các kỹ năng phát triển không đồng đều.
Tự kỷ có phải là bệnh không
Tự kỷ đã được y học xác định là một căn bệnh với điểm chung là hình thành từ khi còn nhỏ và phản ánh các diễn biến bệnh trong thời gian dài sau đó. Tính chất rối loạn ở bệnh lan tỏa ở mức độ khác nhau từ nhẹ đến nặng với các đối tượng khác nhau, tùy thuộc vào nguyên nhân gây ra tình trạng tự kỷ.
Bệnh tự kỷ có sự khác biệt lớn về loại và mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng mà mọi người gặp phải nên được biết đến như một rối loạn phổ tần số. Bệnh này không phân biệt chủng tộc, giới tính, tuổi tác, lĩnh vực hoạt động… nhưng có nguy cơ cao nhất ở trẻ em với xu hướng ngày càng tăng cao.
Hầu hết trẻ em vẫn được chẩn đoán mắc bệnh sau 4 tuổi, mặc dù tự kỷ có thể được chẩn đoán ngay từ khi mới 2 tuổi. Đồng thời cho đến hiện nay, vẫn chưa có một loại thuốc đặc thù nào dùng điều trị chứng tự kỷ. Quá trình điều trị đang được áp dụng chủ yếu vẫn dựa vào các liệu pháp giáo dục, điều trị tâm lý…
Các dạng tự kỷ
Tự kỷ có nhiều dạng, phân chia theo các tiêu chí khác nhau. Tuy nhiên theo thực tế hiện nay, các nhà khoa học đã ghi nhận và phân loại tự kỷ với 5 dạng phổ biến dựa trên các biểu hiện và triệu chứng của bệnh như sau:
Hội chứng Asperger
Người bệnh mắc hội chứng Asperger trong tự kỷ được chẩn đoán muộn hơn so với các dạng tự kỷ khác, thường là giai đoạn từ 5 đến 9 tuổi, và thậm chí có thể muộn hơn. Những bệnh nhân thuộc dạng tự kỷ này thường có trí thông minh và phát triển ngôn ngữ bình thường nhưng kỹ năng xã hội suy yếu nghiêm trọng.
Asperger là dạng nhẹ trong các dạng rối loạn phổ tự kỷ vì một người mắc hội chứng Asperger có thể rất thông minh và tự xử lý cuộc sống hàng ngày của mình. Họ có thể thực sự tập trung vào các chủ đề mà bản thân quan tâm và thảo luận không ngừng nghỉ chứ không trầm lặng một mình.

Rối loạn phát triển lan tỏa
Rối loạn phát triển lan tỏa (PDD-NOS) là dạng tự kỷ bao gồm một loạt các rối loạn về sự chậm phát triển như phát triển xã hội, giao tiếp và khả năng sử dụng trí tưởng tượng. Mức độ thì nặng hơn hội chứng Asperger, nhưng bản chất không nặng bằng chứng rối loạn tự kỷ.
Các triệu chứng của rối loạn phát triển lan tỏa thường là tình trạng bị trì hoãn trong các giai đoạn phát triển, đặc biệt là giao tiếp và phát triển xã hội. Người mắc phải có thể bối rối về thế giới xung quanh và gặp khó khăn trong việc hiểu cách mà thế giới đó hoạt động.

Rối loạn phân ly tuổi thiếu niên
Rối loạn phân ly tuổi thiếu niên bao gồm nhiều khía cạnh khác nhau liên quan đến sự phát triển của một đứa trẻ. Hầu hết trẻ em mắc hội chứng này thường có xu hướng phát triển bình thường ở tuổi lên 2, nhưng dần dần thì bắt đầu mất tất cả những gì bản thân đã học sau giai đoạn này.
Sự mất đi như vậy có thể diễn ra từ từ, nhưng thường diễn biến nhanh chóng trong vòng vài tháng. Trẻ có thể lặp đi lặp lại một số hành vi nhất định, mất đi hầu như tất cả các kỹ năng xã hội và hầu hết các kỹ năng tự giúp đỡ, chẳng hạn như tự ăn. Đây là dạng hiếm gặp nhất và nghiêm trọng nhất của bệnh tự kỷ.

Rối loạn tự kỷ
Rối loạn tự kỷ là dạng phổ biến nhất của tự kỷ, thể hiện rõ ở khía cạnh người bệnh gặp khó khăn khi giao tiếp và liên quan đến người khác. Thời gian bắt đầu xuất hiện bệnh thường ở độ tuổi rất trẻ và sẽ tiếp tục cho thấy nhiều dấu hiệu khác khi trưởng thành về sau.
Dạng này thực tế bao gồm các loại triệu chứng tương tự hội chứng Asperger và Rối loạn phát triển lan tỏa, không biệt định nhưng ở mức độ mãnh liệt hơn. Một số triệu chứng cụ thể là: không có khả năng giao tiếp bằng mắt, gọi hỏi không trả lời, thường có xu hướng liếc ngang dọc thay vì nhìn thẳng,…
Hội chứng Rett
Rett là một dạng tự kỷ hầu như chỉ xảy ra ở trẻ gái và có xu hướng xuất hiện vào khoảng 6 tháng tuổi rồi tiến triển trong suốt quãng đời còn lại của đứa trẻ. Mức độ nghiêm trọng có sự thay đổi khác nhau giữa từng bé nhưng thường theo một mô hình thoái hóa về tinh thần và thể chất.
Triệu chứng của hội chứng Rett thường bắt đầu với hành vi có vẻ như tự kỷ. Tuy nhiên về sau thì sẽ tiến triển đến các vấn đề về giấc ngủ, khó thở, cử động lạ, nghiến răng, tăng trưởng chậm, co giật,… và làm chậm khả năng nhận thức, đánh mất kỹ năng đã được học và suy giảm thể chất nghiêm trọng.

5 dạng kể trên đều thể hiện ngay từ khi còn bé và khá rõ rệt. Tuy nhiên tự kỷ hiện nay còn xuất hiện người lớn, xuất hiện do nhiều tác động và có thể chia thành nhiều dạng thường gặp như tự kỷ ám thị, tự kỷ tinh thần hoặc chia theo 2 nhóm gồm tự kỷ tăng động và tự kỷ hướng ngoại.
Dấu hiệu, triệu chứng nhận biết tự kỷ
Dấu hiệu, triệu chứng tự kỷ ở trẻ em và người lớn không hoàn toàn giống nhau vì quãng thời gian sinh sống và môi trường tiếp xúc khác nhau. Cụ thể:
Dấu hiệu nhận biết trẻ tự kỷ
Thiếu hụt các kỹ năng tương tác xã hội
Thiếu hụt kỹ năng tương tác xã hội là dấu hiệu cơ bản của tự kỷ. Sự tương tác này được thực hiện với môi trường sống và mọi người xung quanh, kể cả với người thân thiết vẫn tiếp xúc hàng ngày với trẻ.

Biểu hiện cụ thể là:
- Trẻ không biết chỉ tay, ít khi giao tiếp bằng mắt, ít các tương tác giao tiếp với hành động, cử chỉ.
- Chơi một mình không chia sẻ với không gian, thế giới riêng và có sự khoanh vùng an toàn với thế giới đó. Ngay cả người thân cũng khó khăn trong thực hiện các giao tiếp, tác động đến trẻ.
- Không làm theo hướng dẫn, chỉ làm theo ý thích của mình do không nhận biết được với các hoạt động xã hội và thực hiện các hành động khác lạ.
- Không khoe khoang cũng không để ý đến thái độ và tình cảm của người khác, ngó lơ với các tính chất trong môi trường sống.
- Mối quan tâm của trẻ rất hạn chế trong một vài hành động nhất định và trẻ không nhận thức với cảm xúc, tình cảm của người khác nên không nắm bắt, tương tác qua lại.
- Một số trẻ tự kỷ chẳng biết lạ ai, không phân biệt được giữa người thân, người lạ vì không để ý và quan tâm đến môi trường xung quanh dù đến bất cứ nơi mới nào.
- Có một số trẻ ngược lại, rất sợ người lạ và chỗ lạ, chỉ thích một mình ở nơi mà trẻ đánh giá là an toàn và không bị ai để ý, thường gắn bó và để ý tới đồ vật nhiều hơn.
Bất thường về ngôn ngữ và giao tiếp
- Trẻ chậm nói, không nói chuyện như bình thường với các phát âm vô nghĩa, dạy không nói theo và không quan tâm tương tác với nội dung cuộc nói chuyện.
- Gặp khó khăn trong thể hiện nhu cầu, cảm xúc, hỉ nói trong trường hợp thực sự cần thiết như khi đòi ăn, đòi đi, … rất khó khăn tương tác, đặt câu hỏi hay trả lời,…
- Giọng nói khác thường, có thể lơ lớ, nói nhanh, ríu lời, nói rất to,… và các thái độ không gắn với hoàn cảnh hay nội dung trò chuyện.
- Không biết chơi những trò chơi có luật hoặc giả vờ mang tính xã hội như bạn bè cùng tuổi vì không nhận thức hay xác định, hiểu được nội dung người khác truyền tải.
Bất thường về hành vi, thói quen, ý thích thu hẹp
- Có nhiều hành vi định hình như đi kiễng gót, lắc lư, nhảy lên nhảy xuống, quay tròn người, ngắm nhìn tay, nhìn nghiêng, lắc lư người, nhảy lên nhảy xuống.
- Có nhiều thói quen rập khuôn thường gặp như đi về theo đúng một đường, ngồi đúng một chỗ, nằm đúng một vị trí, thích mặc đúng một bộ quần áo, làm một việc theo một trình tự nhất định,… không tự khám phá hay tìm kiếm sự lựa chọn tốt hơn.
- Ý thích bị thu hẹp thể hiện qua cách chơi đơn điệu kéo dài, nhiều giờ hoặc tay luôn cầm một thứ như bút, tăm, giấy, chai lọ, đồ chơi ưa thích.
- Một số trẻ sẽ ăn vạ, khóc lóc nếu không vừa ý khi không biết nói và khó kiềm chế. Đồng thời có khoảng trên 70% trẻ tự kỷ có biểu hiện tăng động, không phản ứng với nguy hiểm.
Rối loạn cảm giác do thần kinh quá nhạy cảm
- Hay chui vào góc tối do sợ ánh sáng, không thích ai sờ vào người mình, ăn có thể không nhai và thường kén ăn.
- Một số bé ngược lại sẽ thích sờ đồ vật một cách vô thức, thích được ôm giữ thật chặt để có cảm giác an toàn hơn.
Một số trẻ tự kỷ có khả năng đặc biệt
- Ngoài các biểu hiện kể trên, nhiều bé tự kỹ sẽ có khả năng ghi nhớ đặc biệt tốt với số điện thoại, biển số xe, chơi trò chơi giỏi, thuộc lòng nhiều bài hát, đọc số chữ sớm, làm toán cộng nhẩm nhanh, bắt chước động tác nhanh,…
- Những biểu hiện đó khiến mọi người dễ nhầm tưởng là trẻ quá thông minh tuy nhiên càng lớn, trẻ thường sẽ ít hòa nhập với bạn bè, khó khăn ngôn ngữ giao tiếp, ảnh hưởng đến các công việc học tập, sinh hoạt.
Triệu chứng nhận biết người tự kỷ trưởng thành
Tùy vào bản thân người bệnh và mức độ nghiêm trọng của bệnh mà người trưởng thành bị tự kỷ sẽ có các biểu hiện không giống nhau. Thế nhưng nhìn chung, tất cả người bệnh tự kỷ trưởng thành đều có một số dấu hiệu chính như sau:
Biểu hiện với các mối quan hệ xung quanh:
- Người bệnh gặp các vấn đề trong khi phát triển các kỹ năng giao tiếp xã hội, nét mặt của họ thiếu sự biểu cảm, tư thế cơ thể của họ không được tự nhiên.
- Họ rất khó làm quen, khó khăn hoặc không thể thiết lập tình bạn và hòa đồng với những người cùng trang lứa.
- Họ gặp phải khó khăn trong việc quan tâm hay chia sẻ, hưởng thụ các lợi ích, thành tựu đạt được với những người xung quanh.
- Thiếu sự đồng cảm vì khó khăn thấu hiểu và chia sẻ cảm xúc của người khác, ví dụ như cảm giác đau lòng hoặc buồn rầu.
Biểu hiện trong công việc và giao tiếp:
- Người trưởng thành mắc chứng tự kỷ có thể tiếp thu chậm, học tập kém hoặc ít nói chuyện, khoảng 40% thậm chí không bao giờ nói chuyện.
- Bản thân họ khó có thể tự bắt đầu hoặc duy trì một cuộc trò chuyện sau khi đã tiến vào cuộc trò chuyện với người đối diện.
- Họ thường rập khuôn máy móc trong giao tiếp,hay lặp đi lặp lại việc sử dụng một từ hay là cụm từ mà bản thân đã nghe nói trước đây.
- Họ gặp khó khăn để có thể hiểu được hết được ý nghĩa của các câu nói có chứa hàm ý, ẩn ý từ người khác, không hiểu được đối phương đang muốn tỏ ra thái độ gì.
Biểu hiện trong hành vi thường ngày
- Người trưởng thành bị tự kỷ cũng thường đặt sự tập trung vào một bộ phận cụ thể nào đó của các món đồ quen thuộc, ví dụ như bánh xe trên một chiếc xe thay vì tập trung toàn bộ vào cả chiếc xe.
- Họ quan tâm và lo lắng về một chủ đề nhất định chẳng hạn như nhiều người có thể bị cuốn hút bởi trò chơi điện tử, hay kinh doanh thẻ…
- Có hiện tượng rập khuôn hành vi một cách máy móc, thực hiện lặp đi lặp lại nhiều lần một hành vi trong vô thức và thành thói quen.
Nguyên nhân gây ra tự kỷ
Cho đến thời điểm hiện tại, các nhà khoa học vẫn chưa tìm ra nguyên nhân chính xác của tự kỷ. Các nghiên cứu đã tiến hành thực tế chỉ có thể xác định bệnh có thể liên quan đến các yếu tố như môi trường, tổn thương tại não bộ hay khuyến khuyết trên các hệ thống gen, miễn dịch. Cụ thể là:
Yếu tố liên quan đến di truyền
Các mã gen mang tính chất đột biến khác nhau thừa hưởng từ cha mẹ có thể làm tăng nguy cơ tự kỷ ở trẻ. Điều này được chứng minh qua nhiều trường hợp của các gia đình nếu có cha mẹ, hoặc anh chị bị tự kỷ thì nguy cơ thế hệ đời sau cũng mắc bệnh tương đối cao. Bệnh sẽ thể hiện với các triệu chứng rõ ràng nhất khi trẻ bắt đầu biết thể hiện ý chí, tập nói và có sự tương tác với thế giới xung quanh.
Những bất thường ở não bộ
Trẻ sơ sinh có thể gặp phải các bất thường ở não, tổn thương não hoặc não bộ kém phát triển dẫn đến tự kỷ từ sớm. Nguyên nhân có thể do:
- Trẻ bị sinh non dưới 37 tuần tuổi, thiếu hoặc ngạt oxy não khi sinh, cân nặng khi sinh thấp chưa đến 2.5kg, vàng da nhân não sơ sinh.
- Thiếu hoặc ngạt oxy não khi sinh, chảy máu não – màng não sơ sinh, chấn thương sọ não do các can thiệp sản khoa, thiếu oxy não do suy hô hấp nặng,
- Nhiễm khuẩn thần kinh như viêm màng não, viêm não hoặc nhiễm độc thủy ngân….
Tổn thương trong quá trình mang thai
Giai đoạn mang thai là thời kỳ trẻ dễ bị ảnh hưởng bởi những tác động tâm lý và nguồn dinh dưỡng được cung cấp. Cụ thể, phụ nữ khi mang thai có tâm trạng vui vẻ thì sinh con thường khỏe mạnh và thông minh. Phụ nữ khi mang thai chịu nhiều đau đớn và tổn thương về cả tinh thần lẫn thể chất sẽ khiến trẻ sinh ra ít nói, chậm chạp, thậm chí có nguy cơ tự kỷ.
Bên cạnh đó, thuốc lá, rượu bia, ma túy,… đều là chất độc hại không tốt đối với sức khỏe thai nhi. Chúng có thể làm biến đổi gen cũng như môi trường nuôi dưỡng thai nhi trở nên bất thường khiến các quá trình tổng hợp không đảm bảo diễn ra ổn định, khỏe mạnh. Do đó, mẹ bầu sử dụng những sản phẩm như vậy sẽ làm tăng nguy cơ trẻ tự kỷ sau khi sinh ra.
Một số yếu tố về môi trường.
Môi trường nói chung bao gồm cả yếu tố về thiên nhiên xung quanh và không gian sinh sống. Cụ thể, người sống trong môi trường ô nhiễm, nhiều hóa chất độc hại, gia đình bỏ mặc, ít quan tâm sẻ chia với nhau, nhiều áp lực, tổn thương tinh thần,… đều ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường khiến người trưởng thành cũng bị mắc bệnh tự kỷ.
Hậu quả khi mắc chứng tự kỷ
Tự kỷ đang ngày có xu hướng gia tăng ở nhiều nhóm đối tượng khác nhau. Hậu quả mà nó gây ra có thể kể đến khái quát như:
Ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của trẻ

Đối với trẻ tự kỷ, não bộ sẽ phát triển ở một tốc độ khác biệt và thường không có được các kỹ năng theo thứ tự nhất định như những trẻ bình thường khác. Ví dụ như việc trẻ học viết chữ, học nói chậm chạp hơn so với bạn bè đồng trang lứa. Một số trẻ có thể nhận biết các màu nhưng lại không biết phân loại theo màu sắc.
Ảnh hưởng đến khả năng tập trung và tương tác
Người tự kỷ thường không tương tác với mọi người theo cách giống như người bình thường. Ví dụ, họ không giao tiếp bằng mắt, không hay cười, không vẫy tay chào hay không biết sử dụng án mắt hoặc cử chỉ ngón tay để người khác chú ý và giao tiếp. Khả năng tập trung, tương tác kém hơn người bình thường sẽ gây ra ảnh hưởng nhất định cho cuộc sống hàng ngày.
Ảnh hưởng đến khả năng thấu hiểu, đồng cảm
Với người tự kỷ, đặc biệt là trẻ em thì việc xem xét mọi việc từ góc nhìn của người khác là rất khó. Họ có thể không hiểu được rằng mỗi người sẽ có những mong muốn và niềm tin khác nhau, không hiểu hay dự đoán được hành vi của người khác, đồng thời cũng không biết rằng những hành vi của mình ảnh hưởng đến người khác như thế nào.
Trong khi đó, đặt mình vào vị trí của người khác để thấu hiểu hay sẻ chia chính là kỹ năng xã hội rất quan trọng. Nếu không có kỹ năng này, người tự kỷ sẽ khó lòng hòa nhập được với mọi người, dễ khiến người khác phật lòng và ảnh hưởng đến cuộc sống tương tác với mọi người.
Ảnh hưởng đến khả năng tự kiểm soát, điều chỉnh
Người bị tự kỷ còn có thể gặp khó khăn trong việc tập trung, thay đổi, sắp xếp, ghi nhớ, quản lý thời gian và điều chỉnh cảm xúc. Khi những kỹ năng này đều không tốt, việc học tập và làm việc sẽ bị ảnh hưởng. Ví dụ, khi giải một bài toán, trẻ tự kỷ có thể thuộc hết lý thuyết nhưng vẫn không biết cách giải vì không sắp xếp các ý nghĩ hay kết hợp các thông tin để giải quyết vấn đề.
Chẩn đoán bệnh tự kỷ ở trẻ bằng phương pháp nào?
Tự kỷ thường có thể được chẩn đoán khi trẻ được 2 tuổi bằng phương pháp xem xét hành vi và biểu hiện cụ thể. Dưới đây là những phương pháp chẩn đoán tương ứng theo từng độ tuổi của trẻ.
Chẩn đoán ở trẻ nhỏ từ 2 đến 5 tuổi
Chẩn đoán ở trẻ nhỏ (độ tuổi từ 2 đến 5) thường là một quá trình 2 giai đoạn gồm:
Giai đoạn 1: Sàng lọc phát triển chung

Mỗi đứa trẻ nên được kiểm tra sức khỏe theo định kỳ. Trong quá trình kiểm tra đó, bác sĩ có thể tiến hành sàng lọc bổ sung có thể cần thiết nếu thấy trẻ có nguy cơ cao mắc ASD hoặc các vấn đề phát triển.
Trẻ có nguy cơ cao sẽ thuộc nhóm đối tượng gồm: trẻ có thành viên gia đình mắc ASD, có một số hành vi ASD, có cha mẹ lớn tuổi, có điều kiện di truyền nhất định hoặc sinh ra với cân nặng khi sinh rất thấp. Cuối cùng, đứa nhỏ nào có vấn đề về phát triển trong quá trình sàng lọc đó sẽ được giới thiệu cho giai đoạn đánh giá thứ 2.
Giai đoạn 2: Đánh giá bổ sung
Giai đoạn này sẽ được thực hiện bởi nhóm các bác sĩ và các chuyên gia y tế khác có kinh nghiệm trong chẩn đoán ASD (tự kỷ). Yếu tố đánh giá để chẩn đoán tự kỷ bao gồm:
- Trình độ nhận thức hoặc kỹ năng tư duy
- Khả năng ngôn ngữ và giao tiếp
- Các kỹ năng phù hợp với lứa tuổi cần thiết để hoàn thành các hoạt động sinh hoạt độc lập, ví dụ như ăn uống, mặc quần áo, đi vệ sinh
Ngoài ra, tự kỷ là một bệnh rối loạn phức tạp đôi khi xảy ra cùng với các bệnh hoặc rối loạn khác nên việc đánh giá toàn diện có thể bao gồm cả xét nghiệm máu và kiểm tra tai nghe. Mục đích cuối cùng là để xác định xem trẻ có bị tự kỷ hay không, nếu có thì đã đến mức độ nào.
Chẩn đoán ở trẻ lớn và thanh thiếu niên
Các triệu chứng tự kỷ ở trẻ lớn và thanh thiếu niên đi học thường được phụ huynh và giáo viên nhận ra đầu tiên. Do đó, ba mẹ có thể trao đổi với các chuyên gia về những khó khăn xã hội của con mình, bao gồm cả các vấn đề với giao tiếp, tương tác xã hội.
Những vấn đề giao tiếp đó có thể bao gồm các vấn đề về giọng điệu của giọng nói, nét mặt hoặc ngôn ngữ cơ thể. Lý do là vì trẻ lớn hơn và thanh thiếu niên có thể gặp khó khăn trong việc hiểu các số liệu về lời nói, ẩn ý, hàm ý hay sự khó khăn trong việc hình thành các mối quan hệ đồng trang lứa.
So với trẻ nhỏ thì phương pháp chẩn đoán này khá “thô sơ” và đơn giản, có thể dễ dàng nhận thấy. Tuy nhiên, ba mẹ vẫn cần tìm hiểu kỹ và nhờ đến sự giúp đỡ của đội ngũ bác sĩ, chuyên gia để có thể xác định chính xác tình trạng thực tế của con với bệnh tự kỷ.
Có những cách nào trị tự kỷ
Điều trị tự kỷ nên bắt đầu càng sớm càng tốt sau khi bệnh được chẩn đoán. Tùy vào mức độ cụ thể của bệnh mà bác sĩ chuyên khoa tâm lý sẽ đưa ra phương pháp điều trị phù hợp. Tiêu biểu có thể kể đến một số phương pháp như
Sử dụng thuốc hóa dược
Hiện nay vẫn chưa có thuốc đặc trị để điều trị chứng tự kỷ nhưng các bác sĩ có thể cho người bệnh dùng các loại thuốc để điều trị các triệu chứng liên quan đến tự kỷ như rối loạn giấc ngủ, trầm cảm, động kinh, rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD), hành vi hung hăng, tự hủy hoại bản thân…
Những loại thuốc này có thể gây ra một số tác dụng phụ nghiêm trọng nên chỉ được dùng khi có sự chỉ định từ các bác sĩ. Đồng thời trong thời gian điều trị bằng thuốc, người bệnh cũng cần được kiểm tra sức khỏe thường xuyên để đánh giá xem thuốc có hiệu quả hay không hoặc kịp thời xử lý tác dụng phụ không mong muốn.
Hành vi, tâm lý và giáo dục trị liệu

Phân tích hành vi ứng dụng (ABA) chính là phương pháp được sử dụng rất phổ biến trong trị liệu tự kỷ. Phương pháp này được thực hiện để bác sĩ tiến hành thăm khám và quan sát kỹ nhận thức, quan hệ xã hội, ngôn ngữ, tự phục vụ của người tự kỷ.
Qua quá trình đó, các bác sĩ cùng chuyên gia sẽ xây dựng chiến lược trị liệu cho từng người cụ thể rồi tiến hành phân tích, những hành vi mà người bệnh cần thực hiện. Các chiến lược thường có cấu trúc chuyên sâu, có thể liên quan đến cha mẹ, anh chị em và các thành viên khác trong gia đình. Mục đích là giúp người bệnh:
- Học các kỹ năng sống cần thiết để sinh sống độc lập
- Giảm các hành vi thách thức, tiêu cực
- Học các kỹ năng xã hội, giao tiếp và ngôn ngữ
Các liệu pháp thay thế
Vì tự kỷ ở mức độ nặng và kéo dài có thể không chữa khỏi hoàn toàn được nên người bệnh có thể áp dụng những liệu pháp thay thế và bổ sung. Tiêu biểu có thể kể đến:
- Chế độ dinh dưỡng: Một số thiết kế về chế độ dinh dưỡng ăn kiêng với những thực phẩm lành mạnh, đảm bảo dinh dưỡng đã được đề xuất cho người bị rối loạn tự kỷ. Bạn có thể hỏi tư vấn từ các bác sĩ, chuyên gia để có thể xây dựng chế độ chuẩn nhất.
- Liệu pháp âm nhạc: Âm nhạc có tác dụng làm giảm bớt các hành vi tiêu cực, tăng cường hoạt động tương tác xã hội nhờ khả năng xâm nhập vào thế giới xúc cảm, tình cảm lạ lùng của người tự kỷ. Đây là liệu pháp thay thế được sử dụng hiệu quả cho nhiều đối tượng.
- Phương pháp hyperbaric: Đây là một phương pháp điều trị y học, thực hiện bằng việc đưa người tự kỷ vào trong môi trường oxi tinh khiết với áp lực lớn hơn 1,4 atmosphere. Lợi ích của phương pháp là vừa có tác dụng điều trị, vừa có tác dụng điều dưỡng người mắc chứng tự kỷ.
Những lưu ý khi trị chứng tự kỷ
- Tự kỷ có nhiều triệu chứng và dấu hiệu khác nhau, không phải lúc nào cũng quan sát được nên cần có sự thăm khám, kiểm tra để xác định chính xác.
- Gia đình có trẻ em bị tự kỷ cần nhanh chóng vượt qua cú “sốc”, lấy lại tinh thần, chấp nhận thực tế và điều chỉnh cuộc sống, phối hợp với các chuyên gia để điều trị.
- Ba mẹ cần kiên trì, can thiệp dạy trẻ tự kỷ mọi nơi, mọi lúc nếu có thể, tránh chán nản, nôn nóng mất kiểm soát cảm xúc khiến con hoảng sợ và chuyển biến xấu.
- Luôn tỏ rõ tình cảm yêu thương và sẻ chia với người tự kỷ để tạo cho họ cảm giác an toàn, dần dần đưa họ ra khỏi vùng cấm địa tự bản thân vẽ ra.
- Bố trí môi trường sống có cấu trúc rõ ràng, ổn định và an toàn, tạo ra không gian sống lành mạnh, thoải mái để hạn chế những ảnh hưởng xấu đến người tự kỷ.
- Thường xuyên cho người bệnh đi khám, đánh giá theo định kỳ, đồng thời phối hợp với các nhà chuyên môn để thiết lập chương trình điều trị phù hợp nhất.
- Ba mẹ không nên mặc cảm che dấu mà tích cực cho trẻ tự kỷ hòa nhập cộng đồng, thông báo cho người có liên quan về tình trạng của trẻ để họ hỗ trợ tốt hơn.
Với tất cả chia sẻ như trên, chắc hẳn mọi người đã hiểu được tự kỷ là gì, nguyên nhân bệnh tự kỷ, dấu hiệu bị tự kỷ cùng nhiều vấn đề liên quan đến việc điều trị tự kỷ. Nếu vẫn còn câu hỏi nào khác, hãy liên hệ ngay để được hỗ trợ chi tiết hơn nhé!